Năm 1944 Chiến_tranh_nhân_dân_giải_phóng_Nam_Tư

Năm 1944 bắt đầu bằng việc các nước Đồng Minh Anh, Mỹ và Liên Xô mở một cuộc "chạy đua tiếp tế" cho quân đội NOVJ. Quân giải phóng nhân dân Nam Tư không còn là các đội du kích nhỏ lẻ không mấy ai để ý như hai năm về trước. Đến mùa xuân năm 1944, NOVJ đã có một lực lượng hùng hậu gồm hơn 400.000 quân bao gồm đủ các binh chủng bộ binh, pháo binh, tăng thiết giáp. Không quân và hải quân đang từng bước được xây dựng và mở rộng. Quân đội NOVJ được biên chế khoảng trên 50 sư đoàn, trong đó có 20 sư đoàn nằm trong biên chế của 8 quân đoàn chủ lực. Đến mùa thu năm 1944, NOVJ đã phát triển đến 15 quân đoàn chủ lực, 16 lữ đoàn độc lập và 2 cụm tác chiến.[21]

Từ cuối năm 1943, bằng đường biển và đường không, các nước đồng minh Anh, Mỹ đã chuyển đến cho Quân giải phóng nhân dân Nam Tư gần 1.000 tấn hàng hóa. Đến đầu năm 1944, vũ khí và phương tiện của Liên Xô vẫn còn chiếm vai trò thứ yếu trong Quân giải phóng nhân dân Nam Tư do việc vận chuyển phải đi xuyên qua những vùng đất đai rộng lớn vẫn còn do quân đội Đức Quốc xã kiểm soát ở Đông Âu.[78] Tuy nhiên, đến mùa xuân và đầu mùa hè năm 1944, quân đội Liên Xô đã có được những điều kiện thuận lợi hơn để cung cấp vũ khí cho đồng minh NOVJ. Ngày 23 tháng 2 năm 1944, phái bộ quân sự Liên Xô do trung tướng Nikolai Vasilyevich Korneev dẫn đầu cùng hơn 30 chuyên gia quân sự Liên Xô đã bay đến Sở chỉ huy của NOVJ để giúp đỡ các đồng minh Nam Tư phát triển quân đội của mình. Sau hội nghị Tehran cuối năm 1943, các nước đồng minh Anh, Mỹ và Liên Xô cũng thỏa thuận cùng dùng chung căn cứ không quân ở Bari (Ý) trên bờ biển Adriatic để tiếp tế cho Quân giải phóng nhân dân Nam Tư.[79][80] Chỉ trong 4 tháng từ ngày 7 tháng 5 đến 7 tháng 9 năm 1944, Không quân vận tải Liên Xô đã chở đến Nam Tư 920 tấn hàng hóa gồm vũ khí, đạn dược, đồng phục, giày dép, thực phẩm, phương tiện vật tư thông tin liên lạc và y tế.[7]

Tháng 2 năm 1944, 7 sư đoàn Quân giải phóng nhân dân Nam Tư từ miền Nam Bosnia phối hợp với 5 sư đoàn đang hoạt động ở Serbia đã giải phóng toàn bộ miền Nam Bosnia và tiến sát Sarajevo, biến đô thị này trở thành một thành phố mặt trận. Tháng 4 và tháng 5 năm 1944, các Quân đoàn vô sản 1 và 2 đã tiến hành chiến dịch Nam Serbia, quét sạch quân Đức và quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia khỏi các thành phố và thị trấn Cazin, Lomnica, Brac, Solta, Podgorach, Bosilevo. Đến tháng 9 năm 1944, sau khi Romania và Bulgaria được giải phóng. Quân đội Liên Xô đã thiết lập được liên lạc trực tiếp trên bộ với Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư và cùng với quân đội của Mặt trận Tổ Quốc Bulgaria phối hợp tác chiến với NOVJ trong các chiến dịch giải phóng các vùng lãnh thổ của Nam Tư còn bị quân Đức và các lực lượng thân Đức chiếm đóng. Hơn 3.000 tấn hàng hóa, chủ yếu là vũ khí và đạn dược đã được Phương diện quân Ukraina 3 chuyển giao cho Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư.[81]

Chiến dịch bắt cóc Tito thất bại

Nơi làm việc của Jisip Broz Tito tại Drvar (di tích được phục dựng sau chiến tranh)

Không thể tiêu diệt được Quân giải phóng nhân dân Nam Tư bằng các chiến dịch càn quét, nước Đức Quốc xã đã dùng đến ngón đòn cuối cùng để thủ tiêu cơ quan đầu não của phòng trào du kích giải phóng dân tộc ở Nam Tư. Dựa trên cơ sở sự thành công của chiến dịch giải cứu Benito Mussolini, trùm phát xít Ý khỏi nơi giam giữ của Chính phủ Pietro Badoglio, cơ quan an ninh Đức Quốc xã do Heinrich Himmler chỉ huy quyết định mở chiến dịch bắt cóc Josip Broz Tito và ban lãnh đạo AVNOJ, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ. Ngày 21 tháng 5 năm 1943, Adolf Hitler phê duyệt kế hoạch hành động và đặt cho nó cái tên mã là "Chiến dịch Hiệp sĩ" (Operation Rösselsprung).[82] Lịch sử của Nam Tư gọi đây là cuộc tấn công thứ bảy của quân Đức.

Quân đội Đức Quốc xã huy động nhiều đơn vị đặc biệt tinh nhuệ tham gia chiến dịch này với tổng quân số trên 20.000 người:[83]

  • Quân đội Đức Quốc xã do tướng Lothar Rendulic chỉ huy, huy động gồm Trung đoàn bộ binh Croatia và Tiểu đoàn xe tăng Tiger-I của Sư đoàn bộ binh 373; Tiểu đoàn trinh sát bọc thép của Sư đoàn bộ binh 369; Trung đoàn 1 của Sư đoàn biệt kích "Brandenburg"; Trung đoàn cơ giới 92; Tiểu đoàn trinh sát sơn chiến 54, Tiểu đoàn 2 pháo tự hành thuộc Sư đoàn "Brandenburg".
  • Lực lượng SS do tướng SS Otto Skorzeny chỉ huy, huy động Tiểu đoàn biệt kích dù 500 SS; các trung đoàn 12, 13 của Sư đoàn 7 SS "Prinz Eugen" và tiểu đoàn trinh sát của sư đoàn này.
  • Lực lượng Ustaše huy động Trung đoàn biên phòng 1 và Lữ đoàn dân quân 2
  • Lực lượng Chetniks huy động các lữ đoàn Bosnia 1 và 2, các lữ đoàn Dinara 501 và 502.
  • Cụm không quân Balkan (Đức) huy động khoảng 100 máy bay, trong đó có 40 máy bay vận tải Ju-52 và hơn 30 tàu lượn DFS 230.

Quân Đức chia làm hai cánh. Cánh quân đường không gồm các đơn vị biệt kích SS bí mật đổ bộ bằng dù và tàu lượn với mục tiêu bất ngờ tập kích Tổng hành dinh NOVJ, bắt giữ Josip Broz Tito cùng Bộ Tổng tham mưu NOVJ và trụ lại chờ quân bộ tấn công đến. Mỗi lính biệt kích Đức đều có ảnh của J. B. Tito. Riêng đối với các sĩ quan và binh sĩ Liên Xô thuộc phái bộ quân sự Liên Xô bên cạnh NOVJ, tướng Otto Skorzeny tuyên bố phái đoàn này có mặt ở Nam Tư là ngoài vòng pháp luật, ông ta cho phép lính biệt kích Đức giết họ ngay khi bắt được mà không cần xét hỏi.[82]

Đối phó lại với đòn đột kích của quân Đức và các lực lượng Nam Tư thân Đức, Quân giải phóng nhân dân Nam Tư tại khu vực Drvar ban đầu chỉ có Sư đoàn Vô Sản 6, Tiểu đoàn cảnh vệ của Tổng hành dinh NOVJ và Học viên trường sĩ quan NOVJ với quân số khoảng 5.000 người và họ ở vào thế bị động ngay từ giờ phút đầu của chiến dịch. Trong quá trình chiến dịch, có sự tham gia giải cứu của Quân đoàn Vô sản 1 và Không quân Liên Xô tại căn cứ Bari.[84]

Kiểu tàu lượn DFS 230 được quân Đức sử dụng trong chiến dịch bắt cóc hụt Nguyên soái J. B. Tito

Ngày "X" mà Adolf Hitler chọn để khởi sự chiến dịch bắt cóc J. B. Tito là ngày 25 tháng 5; ngày mà J. B. Tito chọn làm ngày sinh nhật của mình kể từ khi ông tham gia quân đội Áo - Hung. Thực ra, J. B. Tito sinh ngày 7 tháng 5 năm 1892, nhưng ông đã chọn ngày 25 tháng 5 và sau này, ngày đó trở thành Ngày Thanh niên Nam Tư.[85] 6 giờ sáng 25 tháng 5, các máy bay Ju-87 (Đức) bắt đầu ném bom và bắn phá khu vực Drvar. Các máy bay Ju-52 vừa thả dù vừa kéo theo các tàu lượn và quân Đức điều khiển chúng hạ cánh xuống các trảng trống trên núi. Đợt đổ bộ đầu tiên của quân Đức gồm 314 lính biệt kích dù của Tiểu đoàn 500 SS và 340 lính của Trung đoàn biệt kích "Brandengurg" dùng tàu lượn. Cuộc đổ bộ của quân Đức diễn ra không suôn sẻ. Do các cơn gió mạnh thổi từ biển Adriatic vào, một tàu lượn đã đáp trúng nơi đóng quân của Lữ đoàn 13 (Sư đoàn Vô Sản 6), ba chiếc khác bị rơi xuống các hẻm núi. Lữ đoàn Vô Sản 13 lập tức nổ súng báo động. Tiểu đoàn cảnh vệ của Tổng hành dinh NOVJ và Học viên trường sĩ quan NOVL cũng tập hợp lực lượng chống lại biệt kích Đức. Quân Đức đổ bộ xuống thị trấn Drvar và lập tức lùng sục J. B. Tito cũng Bộ tham mưu của ông. Những người dân đều trả lời không biết J. B. Tito ở đâu và họ bị bắn chết ngay lập tức.[82]

Vào thời điểm quân Đức đổ bộ, J. B. Tito đang ở nơi làm việc của ông trong một hẻm núi cạnh thị trấn trên độ cao 70 m. Hang này có cửa vào theo đường mòn và một cửa ra ở vách núi dựng đứng phía đối diện. Phát hiện có báo động, ông đã dùng dây thừng tụt xuống theo cửa ra và chạy đến điểm tập trung theo quy ước cách thị trấn Drvar hơn 1 km. Tại đây, ông gặp Bộ tham mưu của mình, các ủy viên chủ chốt của AVNOJ, các sĩ quan của các phái bộ quân sự Liên Xô, Mỹ và Anh. Ngay lập tức, tiểu đoàn cảnh vệ đã hộ tống họ đến Sở chỉ huy dự bị ở Potosi, cách Drvar khoảng hơn 10 km. Tuy nhiên, quân Đức đã bao vây khắp mọi ngả đường quanh khu vực Drava và tiếp tục dồn ép Lữ đoàn Vô Sản 13. 11 giờ trưa 25 tháng 5, hơn 1.000 quân của Lữ đoàn Vô Sản 3 tổ chức phản đột kích và Trung đoàn SS "Brandenburg", giải cứu nhà báo Mỹ Stojan Pribicevic và ba nhà báo đồng minh bị quân Đức bắt được lúc mở đầu trận đột kích.[86]

23 giờ đêm 25 tháng 5, J. B. Tito triệu tập cuộc họp với tất cả các chỉ huy NOVJ cùng với chỉ huy trưởng các phái bộ quân sự Anh, Mỹ và Liên Xô bàn kế hoạch thoát vây. Trong khi đại tá Vivian Strich, trưởng phái bộ quân sự Anh đề nghị chia nhỏ đoàn người thành nhiều nhóm để thoát vây thì tướng N. V. Korneev phản đối. Ông cho rằng làm như vậy là xé lẻ đội hình cho quân Đức "làm thịt". Theo Korneev thì dựa vào kinh nghiệm trên chiến trường Xô-Đức, đoàn quân cần phải tập trung hành động thống nhất bên nhau. Josip Broz Tito nghe theo N. V. Korneev. Nhận được tin báo khẩn cấp từ Drvar, tướng Koča Popovic, tư lệnh Quân đoàn Vô Sản 1 đã điều Sư đoàn Vô sản 6 hành quân đến Potosi. Sáng 26 tháng 5, Sư đoàn Vô Sản 6 đã gặp đoàn quân của Sở chỉ huy NOVJ và dẫn đoàn người vượt qua vùng núi Sator đến Cupreshko, trong vùng kiểm soát của NOVJ. Tuy nhiên, đây lại là địa điểm rất không thuận lợi để đặt Sở chỉ huy vì nó ở quá xa về phía bắc của chiến trường chính. Sau mấy ngày bàn thảo, cuối cùng, Josip Broz Tito quyết định rời trụ sở ACVNOJ và Tổng hành dinh NOVJ đến đảo Vis bằng máy bay của đồng minh bay qua Bari.[87]

Nguyên soái J. B. Tito cùng một số sĩ quan trong phái bộ quân sự đồng minh tại Drvar, tháng 5 năm 1944

Tuy nhiên, có một khó khăn mà các chỉ huy của NOVJ không tính đến là liên lạc qua điện đài. Phái bộ quân sự Anh đã phải phá hủy điện đài của họ vì sợ lọt vào tay quân Đức. Phái đoàn quân sự Liên Xô có điện đài nhưng là loại công suất nhỏ, chỉ có thể liên lạc với căn cứ tại Bari khi Sở chỉ huy NOVJ còn đóng tại Drvar. Bãi hạ cánh cũng chưa được chuẩn bị. Nhờ sự tháo vát của hiệu thính viên Liên Xô Dolgov, cuối cùng, ngày 2 tháng 6, liên lạc vô tuyến đã được nối lại. Dolgov đã đem điện đài lên đỉnh núi cao nhất tại khu vực Cupreshko và dựng ăng ten lên nơi cao nhất, đánh hai bức điện gửi đi Bari và Moskva, yêu cầu cho máy bay đến khu vực Cupreshko vào 22 giờ đêm 3 tháng 6. Phái đoàn quân sự Anh - Mỹ cũng gửi một bức điện tương tự về Bari cho Bộ chỉ huy đồng minh ở Địa Trung Hải. Thời hạn người Anh hẹn máy bay đến đón chậm hơn phía Liên Xô 24 giờ. Trong khi đó, người Nam Tư khẩn trương chuẩn bị một đường băng dã chiến gần trung tâm thị trấn.[88]

Đêm 3 rạng ngày 4 tháng 6, tướng S. V. Sokolov, chỉ huy Liên Xô tại căn cứ Bari phái tổ bay Li-2 gồm đại úy phi công A. S. Sornikov, trung úy hoa tiêu P. N. Yakimov và thượng sĩ hiệu thính viên kiêm cơ khí trên không B. T. Kalinkin bay đi Cupreshko. Sau hơn 3 giờ bay và tìm kiếm những đốm lửa từ bãi hạ cánh trong sương mù, 23 giờ đêm 3 tháng 6, tổ bay của đại úy A. S. Sornikov đã hạ cánh xuống bãi đáp Cupreshko, đón J. B. Tito, các nhân vật chủ chốt của AVNOJ và NVOJ và lãnh đạo phái bộ quân sự Liên Xô về Bari ngay trong đêm.[80] Ngày hôm sau, tổ bay của A. S. Sornikov tiếp tục đón những yếu nhân còn lại của AVNOJ và phái đoàn quân sự Liên Xô, dẫn đường cho các máy bay Anh, Mỹ đến Cupresko đón phái bộ quân sự Anh, Mỹ về Bari. Ngày 6 tháng 6, tàu chiến Anh HMS Blackmore đã đưa J. B. Tito cùng Bộ Tổng tham mưu của ông đến đảo Vis. Chiến dịch "Hiệp sĩ" của Hitler nhằm thủ tiêu bộ máy lãnh đạo kháng chiến của Nam Tư hoàn toàn phá sản. Các phi công Liên Xô A. S. Sornikov, P. N. Yakimov và B. T. Kalinkin được tặng các danh hiệu Anh hùng nhân dân Nam Tư và Anh hùng Liên Xô.[82][89]

Cuộc đàm phán J. B. Tito và I. V. Stalin tại Moskva

Tháng 9 năm 1944, Bulgaria được giải phóng và bắt đầu tham chiến cùng Liên Xô và phe Đồng Minh chống phát xít. Các chiến dịch tiếp theo của Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) tại Balkan cần có sự phối hợp với quân đội Bulgaria và Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư trên lãnh thổ Nam Tư. Tuy nhiên, do tránh cuộc càn quét của quân Đức ở Drvar mùa hè năm 1944, Bộ Chỉ huy tối cao NOVJ buộc phải di tản ra đảo Vis. Điều này gây bất tiện cho công tác lãnh đạo chỉ huy của bản thân J. B. Tito và Bộ Chỉ huy NOVJ cũng như sự phối hợp giữa các cơ quan chỉ huy của quân đội Liên Xô và quân đội Bulgaria với NOVJ. Sau nhiều phiên họp bàn bạc, ngày 18 tháng 9, J. B. Tito chấp thuận đề nghị của phía Liên Xô về việc rời Bộ Chỉ huy tối cao NOVJ đến thành phố Crajova của Romania, sát biên giới phía đông Nam Tư, cách Beograd trên dưói 100 km về phía đông thuộc vùng kiểm soát của quân đội Liên Xô. Đây là vị trí thuận tiện để Bộ Chỉ huy tối cao NOVJ có thể giữ liên lạc chặt chẽ với tất cả các quân đoàn chủ lực của họ.[90]

Không quân tầm xa của Liên Xô cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ, di chuyển Bộ Chỉ huy NOVJ đến Crajova và đưa Tổng tư lệnh NOVJ, nguyên soái Josip Broz Tito đến thăm Moskva theo lời mời của I. V. Stalin. Đêm 19 tháng 9 năm 1944, trung tướng N. V. Korneev triệu tập đại tá V. A. Shchelkunov, chỉ huy phi đội đặc nhiệm cùng các phi công P. M. Mikhailov và V. G. Pavlov đến phòng làm việc của mình. Ông giao cho họ nhiệm vụ phải bí mật di chuyển Bộ Chỉ huy tối cao NOVJ và J. B. Tito từ đảo Vis đến Crajova. Lộ trình bay được vạch ra từ đảo Vis theo hướng Bari nhưng ra đến biển Adriatic thì vòng lên hướng tây bắc, sau đó quặt vào đất liền, vượt qua vùng Bosnia và Serbia đến Crajova. Chuyến bay được dự kiến khởi hành vào 3 giờ sáng 20 tháng 9. Trong quá trình bay không được sử dụng liên lạc vô tuyến. Kế hoạch bay của ba chiếc Li-2 do đại tá V. A. Shchelkunov chỉ huy đã được thực hiện trọn vẹn và an toàn tuyệt đối. Sau 4 giờ bay, J. B. Tito và đoàn cán bộ chỉ huy của Bộ Chỉ huy NOVJ đã hạ cánh xuống sân bay Crajova và bắt đầu làm việc. Nguyên soái J. B. Tito và một số sĩ quan cao cấp NOVJ tiếp tục bay đến Moskva để bàn bạc với Liên Xô và Bulgaria về việc phối hợp hành động giữa quân đội ba nước.[91]

Sau khi nhận được báo cáo của Trưởng phái bộ quân sự Anh tại đảo Vis rằng J. B. Tito và Bộ Chỉ huy NOVJ đã biến mất, đại tướng William Elliott, chỉ huy các lực lượng không quân Anh tại Địa Trung Hải rất tức giận vì cho rằng J. B. Tito phải bay đến Bari chứ không thể đi nơi khác. Ông lập tức triệu tập tướng S. V. Sokolov, Trưởng phái đoàn quân sự Liên Xô tại Bộ Tư lệnh đồng minh ở Địa Trung Hải để làm rõ việc "người Nga đã giấu Tito ở đâu?". Tướng S. V. Sokolov trả lời rằng ông hoàn toàn không biết. Khi William Elliott kết luận rằng người Nga đã lợi dụng lòng tốt của họ thì S. V. Sokolov trả lời: "Chúng tôi cảm ơn các đồng minh của chúng tôi và cũng xin sẵn lòng đền đáp lại như vậy". Cuộc căn vặn giữa hai viên tướng chấm dứt khi Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô I. V. Stalin đã thông báo cho Thủ tướng Anh Winston Churchill rằng Josip Broz Tito đã ở Moskva để bàn việc hiệp đồng trong các chiến dịch sắp tới giữa quân đội Liên Xô với Quân giải phóng nhân dân Nam Tư và Quân đội của Mặt trận Tổ quốc Bulgaria.[92]

Tại cuộc hội đàm giữa J. B. Tito và I. V. Stalin, hai bên đã đạt được nhiều thảo thuận quan trọng về phối hợp tác chiến và tăng cường thêm trang bị cho Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư. Phía Liên Xô đã cử các đại diện đến các bộ chỉ huy vùng của Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư với tư cách là các sĩ quan liên lạc để bảo đảm phối hợp tác chiến giữa hai bên. Thiếu tướng A. P. Gorskov được cử đến đến Bộ chỉ huy vùng Serbia, nơi sẽ diễn ra những sự kiện quan sự chủ yếu của Chiến dịch giải phóng Beograd. Đại tá P. Kh. Rakh được cử đến Bộ chỉ huy vùng Croatia. Đại tá N. K. Patrakhanchyev được cử đến Slovenia. Thiếu tá P. M. Kovalenko được cử đến Montenegro. Cùng đi với họ có các đội sĩ quan tùy tùng, điện báo viên và nhân viên kỹ thuật.[81]

Trên cơ sở các thỏa thuận đã đạt được tại Moskva giữa I. V. Stalin và J. B. Tito, trong nửa cuối tháng 9 năm 1944, Bộ tham mưu Phương diện quân Ukraina 3 và Bộ tham mưu tối cao NOVJ đã cùng soạn thảo kế hoạch giải phóng Beograd. Đến ngày 20 tháng 9 năm 1944, họ đã báo cáo dự thảo kế hoạch lên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao và Tổng hành dinh của NOVJ. Mục tiêu tổng quát của chiến dịch là tiêu diệt cánh quân Đức ở đông bắc Nam Tư (Cụm tập đoàn quân "Serbia"), đánh chiếm Beograd và các trung tâm đầu mối đường sắt quan trọng ở Nam Tư, ngăn chặn quân Đức rút lui từ Montenegro, Macedonia và Hy Lạp lên củng cố các phòng tuyến ở sông Tissa và sông Danub (Hungary). Kế hoạch dự định sử dụng Tập đoàn quân 57 của tướng N. A. Gagen và Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 của tướng V. I. Zhdanov. Trục giao thông đường sắt từ Beograd đi Saloniki (Hy Lạp) là các vị trí đóng quân của Cụm tập đoàn quân Serbia và Cụm tập đoàn quân F (Đức) có tác dụng như một tuyến phân giới để phối hợp hành động. Quân đội Liên Xô tấn công từ phía đông, Quân đội NOVJ tấn công ở phía tây tuyến này. Riêng ở phía nam Serbia và khu vực Macedonia, quân đội Bulgaria sẽ tham gia chiến dịch từ hướng Đông, phối hợp với các đơn vị NOVJ từ phía tây đánh vào Skopje, Nish và các trung tâm khác trong vùng. Trên cánh Bắc của chiến dịch, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cũng huy động thêm Quân đoàn bộ binh cận vệ 10 của Tập đoàn quân 46 để phối hợp tấn công Beograd từ hướng đông bắc. Đối mặt với quân đội Liên Xô, Nam Tư và Bulgaria là 11 sư đoàn Đức 2 sư đoàn quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia và 3 sư đoàn quân Ustaše. Chiến dịch dự kiến sẽ hoàn thành ngày 13 hoặc 14 tháng 10 năm 1944.[7]

Giải phóng Beograd

Lữ đoàn xe tăng 36 thuộc Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) chuẩn bị bước vào Chiến dịch giải phóng Beograd, tháng 10 năm 1944

Sát trước thời điểm diễn ra chiến dịch giải phóng Beograd, các quân đoàn bộ binh 68 và 75 (Tập đoàn quân 57) đã hoàn thành chiến dịch phòng ngự quyết liệt trên sông Danub, đánh chiếm một đầu cầu khá lớn ở các khu vực Vidin và Turnu-Severin trên bờ Tây sông Danub thuộc lãnh thổ Bulgaria và Nam Tư. Các khu vực này đều trở thành các bàn đạp rất lợi hại để tấn công Cụm tập đoàn quân Serbia (Đức). Ngày 28 tháng 9 năm 1944, chiến dịch chính thức mở màn.[93]

Trên cánh phải, Quân đoàn bộ binh 10 (Tập đoàn quân 46) và Giang đoàn Danub sau khi quét sạch quân Đức tại các khu vực Bela - Tsrkva và Vrshats bên tả ngạn sông Danub đã đánh chiếm Panchevo, một đầu mối giao thông quan trọng trên bờ sông Danub, cách Beograd 15 km về phía đông. Trên khu vực Vidin và Turnu-Severin, các quân đoàn bộ binh 68 và 75 đã hình thành hai mũi tấn công vu hồi từ Brza-Palanka và Vidin, hợp điểm tại phía tây Negotin. 2 sư đoàn Đức và 1 sư đoàn quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia đã bị bao vây, tiêu diệt và bắt làm tù binh tại khu vực Negotin. Ngày 30 tháng 9, thống chế Maximilian von Weichs mở một cuộc phản công của 2 sư đoàn Đức và 1 sư đoàn Quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia từ Doni-Milanovo vào sau lưng Quân đoàn bộ binh 75. Tướng Kosa Popovic đã điều động Quân đoàn Vô sản 14 của NOVJ chặn đứng cuộc phản công này, đánh chiếm Klakochevats và Doni-Milanovo, đẩy quân Đức lùi về tuyến sông Pek. Dưới sự yểm hộ của Quân đoàn cơ giới cận vệ 5 (Liên Xô), các sư đoàn bộ binh 23, 25 và Lữ đoàn cơ giới Vô sản 5 (NOVJ) cũng từ dãy núi Đông Serbia mở cuộc tấn công vào các đơn vị quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia ở Bor và Zagubitsa. Chỉ sau ba ngày, các đơn vị này đã tiến công liền một mạch gần 100 km, đánh chiếm Petrovac, Jabari, Jdrelo và Svilainac, cắt đứt con đường sắt từ Beograd đi Nish.[81]

Xe tăng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) trong chiến dịch giải phóng Beograd

Trên hướng Zaechar, Quân đoàn bộ binh 64 (Tập đoàn quân 57) gặp phải sức kháng cự kịch liệt của 1 sư đoàn Đức và 1 sư đoàn quân Ustaše tại các con đèo qua dãy núi Đông Serbia. Sư đoàn bộ binh 45 (NOVJ) đã từ thị trấn Bor phối hợp đánh vào sau lưng các trung đoàn Đức đang phòng thủ, buộc quân Đức phải bỏ các con đèo rút chạy. Chiều 30 tháng 9, Quân đoàn bộ binh 64 đánh chiếm thành phố Zaechar và các thị trấn Bolevac, Knijajevac bên sườn phía tây dãy núi Đông Serbia, hình thành cánh quân từ phía bắc uy hiếp bao vây thành phố Nish do Sư đoàn 7 SS chiếm đóng. Ở phía nam, Tập đoàn quân 2 (Bulgaria) và Sư đoàn bộ binh 6 (Liên Xô) cũng mở cuộc tấn công từ Babushnica sang phía tây. Tuy nhiên, do còn thiếu kinh nghiệm tác chiến chiến dịch binh chủng hợp thành nên đến ngày 10 tháng 10, Tập đoàn quân 2 (Bulgaria) chỉ tiến được khoảng 30 km đến bờ Đông sông Nam Morava. Trên hướng Skopje, các tập đoàn quân 1 và 4 (Bulgaria) vẫn chưa vượt đi qua tuyến biên giới Macedonia - Bulgaria.[94]

Giai đoạn 2 của chiến dịch giải phóng Beograd bắt đầu ngày 11 tháng 10 năm 1944 với sự điều động một lực lượng lớn quân đội NOVJ tham gia tác chiến trên suốt chiều dài mặt trận từ phía bắc Beograd đến phía nam Skopje. Trước đo, Sư đoàn 23 của NOVJ đã đánh chiếm một dải đầu cầu quan trọng ở bờ Tây sông Morava tại khu vực Velika-Planc, tạo điều kiện để đưa Quân đoàn cơ giới cận về 4 (Liên Xô) vượt sông Morava và tham chiến với tất cả các sức mạnh của nó. Tuy nhiên, trong những ngày đầu tiên của giai đoạn 2, các xe tăng của Quân đoàn co giới cận vệ 4 đã vọt tiến lên phía trước, trong khi bộ binh của Quân đoàn Vô sản 14 (NOVJ) do tướng Peko Dapchevich chỉ huy vẫn còn tụt lại phía sau. Vì Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 có ít bộ binh nên đã bị các sư đoàn Đức phòng thủ ở phía nam Beograd gây một số thiệt hại. Ngày 13 tháng 10, tướng N. V. Korneev, trưởng phái đoàn quân sự Liên Xô tại Bộ chỉ huy tối cao NOVJ báo cáo về Bộ Tổng tham mưu Liên Xô về tình hình thất lợi trên hướng Palanka - Beograd. Gần như ngay sau đó, Bộ tham mưu Phương diện quân Ukraina 3 nhận được lệnh chỉ đạo cho Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 phải chở bộ binh Nam Tư trên xe tăng để cùng tấn công, hạn chế hỏa lực chống tăng của bộ binh Đức.[95]

Với sức mạnh tấn công của 3 quân đoàn Liên Xô và Nam Tư, sáng 14 tháng 10, những chi đội xe tăng của Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 và các tiểu đoàn bộ binh Nam Tư đầu tiên của Quân đoàn Vô Sản 14 (NOVJ) đã có mặt tại ngoại ô phía nam Beograd. Tại đây, 20.000 quân Đức và quân Ustaše được trang bị 40 xe tăng và 170 khẩu pháo đã bị bao vây. Các trận đánh trong nội đô Beograd cũng diễn ra khá quyết liệt. Trong những ngày từ 14 đến 17 tháng 10, Quân đoàn bộ binh 75 (Liên Xô), Quân đoàn Vô Sản 14 và Sư đoàn xung kích 5 của Quân đoàn Vô Sản 1 (Nam Tư) cùng Lữ đoàn cơ giới cận vệ 5 (Liên Xô) đã chặn tất cả các đường rút lui và chia cắt cụm quân Đức-Ustaše tại ngoại ô Đông Nam Beograd. Từ ngày 15 đến ngày 19 tháng 10, quân đội Liên Xô và Quân giải phóng nhân dân Nam Tư đã lần lượt dập tắt những ổ kháng cự cuối cùng của quân Đức và lính Ustaše tại Beograd. Ngày 20 tháng 10, tại cuộc mít tinh của người dân Beograd mừng thành phố giải phóng, tướng V. I. Zhdanov (Liên Xô) và tướng Peko Dapchvich (Nam Tư) đã cùng phát biểu và ôm hôn nhau thắm thiết. Buổi tối cùng ngày, Moskva nổ 24 loạt pháo hoa từ 224 khẩu đại bác chúc mừng Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư và Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) đã giải phóng Beograd.[81]

Chiến dịch Nish - Mitrovica

Lữ đoàn du kích Skopje 12 năm 1944

Sau chiến dịch giải phóng Beograd, hơn 10 sư đoàn Đức và gần 200.000 lính chư hầu Ustaše (Croatia) và Nedić (Quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia) đóng tại Kosovo, Macedonia và Hy Lạp chỉ còn con đường rút lui duy nhất khỏi Nam Tư là sử dụng các nhánh đường sắt phía tây nam Tư qua Skpoje - Pristina và Nish - Mitrovica rồi qua Sarajevo lên phía bắc. Do sự phối hợp chưa tốt giữa Quân đội nhân dân Bulgaria và Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư nên hai kế hoạch tấn công chặn đánh quân Đức tại khu vực Chachak - Kralevo - Kraguevac - Krucevac không thực hiện được. Một bộ phận đáng kể quân Đức đã rút lui đến Sarajevo an toàn. Ngày 20 tháng 10, Quân đoàn bộ binh 34 (Đức) cùng gần 90.000 quân Ustaše đã mở một cuộc phản công lớn vào Kraguevac, buộc Quân đoàn bộ binh 68 (Tập đoàn quân 57) cùng các sư đoàn bộ binh 17, 23, 25 và Vô Sản 2 (Nam Tư) phải tạm thời chuyển sang phòng ngự với những tổn thất rất nặng nề để giữ vững Kraguevac. Với số quân vừa được rút lên phía bắc, tướng Alexander Löhr đã xây dựng được các tuyến phòng thủ dọc theo các con sông Drava, Drina, Sava và Nam Morava, giữ hành lang chiến lược dọc theo phía tây nam Tư.[96]

Tình hình thay đổi buộc Bộ chỉ huy Phương diện quân Ukraina 3, Bộ chỉ huy tối cao NOVJ và Bộ Tổng tham mưu quân đội Bulgaria phải vạch một kế hoạch tấn công mới với trọng điểm là các khu vực Nish - Mitrovica và Skopje - Pristina ở vùng Nam Serbia, Kosovo và bắc Macedonia. Ngày 18 tháng 10, Quân đoàn bộ binh 64 (Liên Xô), Quân đoàn bộ binh 13 (Nam Tư) và Tập đoàn quân Bulgaria 2 mở cuộc tổng công kích vào Nish. Ngày 21 tháng 10, thành phố Nish được giải phóng. Quân NOVJ thừa thắng đánh chiếm các thành phố Prokuple và Leckovac. Sư đoàn 6 của Tập đoàn quân 2 Bulgaria cũng đánh chiếm Vrane, mở ra cửa ngõ đánh chiếm Skopje từ phía bắc. Ở phía nam, các tập đoàn quân Bulgaria 1 và 4 vẫn tiến công rất chậm, đến cuối tháng 10 năm 1944, họ vẫn còn cách tuyến sông Vardar và thành phố Skopje hơn 50 km về phía đông. Quân Đức và quân Chính phủ cứu nguy dân tộc Serbia đã tranh thủ thời gian rút được một số quân lớn qua nhánh đường sắt phía tây Macedonia lên phía bắc.

Để tăng cường sức mạnh cho NOVJ, ngày 15 tháng 10, không quân Liên Xô đã chuyển giao Cụm không quân Nam Balkan và các căn cứ của Vùng 9 không quân cho NOVJ. Tướng A. N. Vitruc chỉ huy cụm không quân này gồm Sư đoàn tiêm kích 236 và Sư đoàn cường kích cận vệ 10, được trang bị 244 máy bay các loại.

Ngày 12 tháng 11, Tập đoàn quân 57 (Liên Xô) di chuyển lên mặt trận Bắc Nam Tư để chuẩn bị mở chiến dịch Budapest. Địa bàn Kosovo được bàn giao cho Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư và Tập đoàn quân Bulgaria 2. Ngày 15 tháng 11, quân NOVJ và quân Bulgaria mở cuộc tấn công vào phía bắc Kosovo, Tập đoàn quân Bulgaria 1 và các sư đoàn NOVJ độc lập thuộc cụm quân Macedonia tổ chức tấn công vào Skopje. Ngày 17 tháng 11, Tập đoàn quân Bulgaria 1 cùng các Sư đoàn Macedonia 42, Serbia 46, các lữ đoàn du kích Kosovo 2 và 3 của NOVJ giải phóng Pristina và Skopje. Ngày 20 tháng 11, Tập đoàn quân Bulgaria 2 cùng các sư đoàn bộ binh Serbia 24 và 47 giải phóng Mitrovica, chặn con đường rút lui của quân Đức từ Skopje đi Novy Pazar. Đến đầu tháng 12 năm 1944, Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư và Quân đội nhân dân Bulgaria đã hoàn toàn làm chủ phần lãnh thổ phía nam Nam Tư bao gồm phần lớn lãnh thổ Serbia, toàn bộ lãnh thổ Montenegro và Macedonia. Cuối tháng 11, du kích Hy Lạp đánh chiếm Athens, du kích của Đảng Cộng sản Anbania cũng đánh đuổi quân Ý và quân Đức khỏi lãnh thổ Anbania và giải phóng toàn bộ nước này ngày 29 tháng 11 năm 1944.

Chiến dịch Novi Sad - Batina

Lữ đoàn du kích Cankarjeva đang hành quân qua Metliki

Mục tiêu của quân đội Liên Xô là mở một hành lang tiếp cận biên giới Hungary tại hướng Vojvodina để tiến quân qua Hungary tiếp cận biên giới phía nam nước Đức Quốc xã. Quân Giải phóng nhân dân Nam Tư cũng muốn tạo một mũi tấn công vu hồi từ Vojvodina vào sau lưng cụm quân Đức và Ustaše đang đóng tại khu vực Sarajevo - Zagreb. Để cùng đạt được những mục đích này, từ ngày 11 đến ngày 19 tháng 11 năm 1944, Tập đoàn quân 57 (Liên Xô, thiếu Quân đoàn 64), Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) và Quân đoàn Vô Sản 1 (Nam Tư) đã phối hợp mở chiến dịch Novi Sad - Batina, giải phóng phần lớn tỉnh tự trị Vojvodina, tạo ra một bàn đạp tấn công rất có lợi cho quân đội Liên Xô và quân NOVJ bên hữu ngạn sông Danub.[97]

Mục tiêu của quân đội Liên Xô và quân đội NOVJ trong chiến dịch đệm này nhằm chiếm được các đầu cầu để tiếp tục phát triển tấn công từ Balkn và Trung Âu. Nếu như Novi Sad là đầu mối giao thông đường sắt và đường sông quan trọng ở phía bắc Beograd thì Batina (thủ phủ quận Barania hiện nay) có vị trí như một đầu cầu có nhiều triển vọng bên hữu ngạn sông Danub. Từ Novi Sad có đuwofng sắt đi Beograd ở phía nam, Subotina ở phía bắc, qua Volkovse đi Zagreb ở phía tây thì từ Batina co thể mở đường tấn công dọc theo hữu ngạn sông Drava đến Zagreb và Maribor hoặc tấn công lên Pech ở phía bắc, đánh vào sau lưng Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) đang phòng thủ tại tuyến Balaton - Budapesht - Mishkol.

Tại hướng Novi Sad, sau thất bại tại Beograd, từ ngày 21 tháng 10 năm 1944, tướng Alexander Löhr rút quân về giữ Novi Sad để phong tỏa con đường tiến ra đồng bằng Hungary. Tuy nhiên, quân đội NOVJ và quân đội Liên Xô đã không cho quân Đức thực hiện được ý đồ đó. Sau khi chiếm Beograd, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 (Liên Xô) và Quân đoàn Vô sản 1 (NOVJ) tiếp tục kéo quân lên phía bắc. Ngày 25 tháng 10, các đơn vị tiền đội của Quân đoàn cơ giối cận vệ 4 đã chạm súng với Sư đoàn SS "Brandenburg" ở phía đông nam Novi Sad. Quân đoàn Vô Sản 1 đã điều 2 sư đoàn bộ binh đánh chiếm Lacharac, cắt dứt con đường rút lui sang phía tây của quân Đức. phía bắc Novi Sad, Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) trên cánh trái của Chiến dịch Debrecen đã đánh chiếm trung tâm đầu mối đường sắt Subotina, cắt đứt đường sắt Budapesht - Novi Sad. Ngày 1 tháng 11, tướng Alexander Löhr buộc phải rút các sư đoàn Đức khỏi Novi Sad, men theo thung lũng sông Danub qua ngả Iloc về Našice.

Trên hướng Batina, đêm mùng 9 rạng ngày 10 tháng 11 năm 1944, các nhóm trinh sát của Lữ đoàn xung kích 12 Vojvodina (NOVJ) và Sư đoàn 233 (Liên Xô) đã vượt sông Danub trên những chiếc xuồng gáp, bí mật chiếm lĩnh các đầu cầu bên hữu ngạn sông Danub. Sáng 11 tháng 11, dưới sự yểm hộ của pháo binh Liên Xô đặt trên bờ trái sông Danub và các máy bay của Tập đoàn quân không quân 17 (Liên Xô), cùng các pháo hạm và súng cối của Giang đoàn Danub, Sư đoàn bộ binh 51, các sư đoàn Vojvodina 7, 8, 12 và sư đoàn 16 (NOVJ) cùng các sư đoàn bộ binh 33, 299, các sư đoàn bộ binh cận vệ 72, 75 (Liên Xô) đồng loạt vượt sông tấn công vào đội hình của Sư đoàn 35 SS. Đến ngày 13 tháng 11, liên quân NOVJ - Liên Xô đánh bại Sư đoàn 35 SS và áp sát phía đông Batina. Quân Đức tung ra 30 xe tăng yểm hộ cho Sư đoàn 31 và 4 trung đoàn Hungary cùng 2 tiểu đoàn lính Ustaše giữ thị trấn Zmajevac, cửa ngõ vào Batina. Trong những ngày 15 và 16 tháng 11, đã diễn ra những cuộc chiến diễn ra ác liệt tại nhà ga Zmajevac, điểm cao 169. Ngày 18 tháng 11, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 236 thuộc Giang đoàn Danub (Liên Xô) đã đổ bộ lên Aptina, phía bắc Batina, hình thành mũi tấn công vu hồi phía bắc. Ngày 19 tháng 11, Lữ đoàn 8 hải quân đánh bộ đổ bộ lên mỏm Monjorošu, đánh chiếm pháo đài Tikveš, một vị trí phòng thủ then chốt của quân Đức ở phía nam Batina. Ngày 22 tháng 11, liên quân NOVJ - Liên Xô mở cuộc tổng công kích vào Batina. Sau một tuần chiến đấu, ngày 29 tháng 11, liên quân Đức - Hungary - Ustaše buộc phải rút khỏi Batina với thương vong lên đến 2.500 người, phía liên quân NOVJ có khoảng 1.500 quân Liên Xô và 487 quân NOVJ tử trận. Cánh cửa vào phía nam Hungary đã được mở.[98]

Chiến dịch Knin

Theo thỏa thuận ngày 4 tháng 10 năm 1944 tại Krajova (Romania) giữa Bộ Tư lệnh Phương diện quân Ukraina 3 với Bộ Tổng tham mưu NOVJ và Bộ Tổng tham mưu Quân đội Bulgaria, quân đội Liên Xô sẽ tham gia các chiến dịch ở miền Đông Serbia, Đông Croatia và tỉnh Vojvodina, sau đó tập trung tấn công trên hướng Đông Nam và Nam Hungary. Quân đội Bulgaria phối hợp với các đơn vị NOVJ giải phóng Macedonia. Nhiệm vụ tác chiến ở Montenegro, Bosnia - Herzegovina và phần lớn lãnh thổ Croatia sẽ do các binh đoàn chủ lực của NOVJ đảm nhận. Để thực hiện nhiệm vụ này, Bộ Tổng tư lệnh NOVJ đã vạch kế hoạch tấn công trên ba hướng. Hướng Beograd - Zagreb ở phía đông, hướng Montenegro dọc theo bờ biển Adriatic và hướng chính diện vào Sarajevo. Mục tiêu cuối cùng của chiến dịch là bao vây một cụm lớn quân Đức tại khu vực Sarajevo, sau đó tấn công Zagreb và phát triển đến tuyến Ricka, Triest, Lyubiana và Maribor, giải phóng hoàn toàn Nam Tư. Để thực hiện việc hợp vây quân Đức tại khu vựa Sarajevo, cần tổ chức một chiến dịch đệm để hình thành cánh quân phía tây khu vực Sarajevo. Đó là mục tiêu của chiến dịch Knin từ 25 tháng 11 đến ngày 5 tháng 12 năm 1944 nhằm giải phóng hoàn toàn vùng Dalmatia ở phía nam Croatia.

Tham gia chiến dịch Knin có lực lượng của Quân đoàn 8 Dalmatia cùng các sư đoàn, lữ đoàn NOVJ độc lập hoạt động khu vực Dalmatia do tướng Petar Drapšin chỉ huy. Quân NOVJ có khoảng 32.000 người, được trang bị 40 xe tăng Anh và xe tăng chiến lợi phẩm. Đối diện với họ là Quân đoàn Sơn chiến 15 (Đức) cùng 2 lữ đoàn quân Ustaše và Sư đoàn Dinara Chetnik do tướng Gustav Fehn chỉ huy có quân số khoảng 20.000 người và hơn 20 xe tăng. Tướng Fehn ra lệnh trừng phạt nghiêm khắc bất cứ quân nhân Đức và chư hầu nào tự ý rời khỏi vị trí chiến đấu. Những đơn vị không nổ súng khi bắt gặp quân của NOVJ sẽ bị coi là "cộng tác với kẻ thù".[99]

Sáng 25 tháng 11, Sư đoàn Dalmatia 20 từ Garno bắt đầu tấn công lên Mostar. Sáng 26 tháng 11, các sư đoàn Dalmatia 19 và 26 bắt đầu tấn công vào từ Metković lên Livny, hai cứ điểm tiền tiêu của quân Đức và chư hầu ở tây nam Croatia. Tốc độ tấn công của cả ba sư đoàn đều rất chậm do sự chống trả kịch liệt của Quân đoàn Sơn chiến 15 (Đức) và quân Chetnick. Ngược lại, các đơn vị Ustaše ngay từ đầu đã dao động và một vài toán quân đã ra hàng quân NOVJ. Không hài lòng với tốc độ tấn công chạm chạp, ngày 28 tháng 11, tướng Petar Drapšin tung Sư đoàn Dalmatia 9 và Lữ đoàn xe tăng 6 từ Šibenik đánh vào Livny. Đòn tấn công bằng xe tăng tỏ ra có hiệu quả rõ rệt. Trong khi các sư đoàn chủ lực của Quân đoàn Sơn chiến 15 (Đức) đang đối phó với Sư đoàn Dalmatia 20 trên hướng Mostar để bịt cánh cửa vào Sarajevo thì Sư đoàn Dalmatia 9 có Lữ đoàn xe tăng 6 mở đường đã kéo quân đánh dọc bờ biển Adriatic lên Knin, Sư đoàn Dinara Chetnick của Momčilo Đujić không chống cự nổi đã phải bỏ Knin rút chạy về Bihač. Cả một vùng cửa sông Garko được giải phóng. Sư đoàn sơn chiến 373 và sư đoàn bộ binh 264 (Đức) liên tục bị tập kích từ sau lưng và tổn thất nặng. Ngày 30 tháng 11, các tiểu đoàn đổ bộ đường không 581 và 583 (Đức) phải rút khỏi Livny, luồn rừng về Sarajevo. Các Lữ đoàn Ustaše 6, 7 và Trung đoàn xe tăng 383 (Đức) hầu như bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh.[100]

Ngày 3 tháng 12 năm 1944, Sư đoàn Dalmatia 9 đánh chiếm Knin. Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 12, Quân đoàn Dalmatia 8 (NOVJ) tiếp tục dồn ép Quân đoàn Sơn chiến 15 (Đức) về phía tây và phía bắc, đánh chiếm các hải cảng Split và Zara, phối hợp với các Quân đoàn Vô Sản 1 và 12 đẩy quân Đức ở Sarajevo vào thế bị nửa hợp vây. Trong chiến dịch này, Quân đoàn Sơn chiến 15 (Đức) chịu tổn thất khá nặng: 6.555 người chết và 4.285 bị bắt làm tù binh. Sư đoàn 264 chỉ còn lại 1.526 người và bị giải thể, Sư đoàn Sơn chiến 373 hầu như tan rã. Quân đoàn Dalmatia 8 (NOVJ) có 677 người chết, 126 người mất tích và 2.439 người bị thương. Trong lịch sử đối đầu với cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Tư, đây là quân đoàn Đức đầu tiên bị thiệt hại nặng nề như vậy với hai sư đoàn chủ lực bị xóa sổ. Ngoài ra, khoảng hơn 5.000 quân Ustaše và chetnick cũng bị tiêu diệt hoặc bị bắt.[101]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_tranh_nhân_dân_giải_phóng_Nam_Tư http://www.bmlv.gv.at/omz/ausgaben/artikel.php?id=... http://www.novosarajevo.ba/stream/press/index.php?... http://www.radiosarajevo.ba/novost/68603/dan-repub... http://komunisti.50webs.com/centartito21.html http://macedonia-history.blogspot.com/2006/10/1941... http://www.feldgrau.com/stats.html http://books.google.com/books?id=R8d2409V9tEC&pg=P... http://books.google.com/books?id=da6acnbbEpAC&lpg=... http://www.imdb.com/title/tt0085713/ http://www.ingentaconnect.com/content/routledg/rmi...